I. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THÁM HOA PHAN KÍNH
Phan Kính sinh năm 1715, trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học. Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là người thông minh, ham học, có chí lớn và đặc biệt yêu thích kinh sử. Trong suốt quá trình học tập, ông luôn thể hiện là người có đạo đức, lễ nghĩa, khiêm nhường và cầu tiến.
Đến năm Quý Hợi (1743), ông dự kỳ thi Hội, rồi vào thi Đình, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), là học vị cao nhất của khoa thi năm Quý Hợi (1743) do triều đình không lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn. Tết Nguyên đán năm Giáp Tý (1744), ông được triều đình cấp ngựa và tiền về quê vinh quy bái tổ Sau khi thi đỗ Thám hoa, năm Giáp Tý (1744), ông được sắc phong giữ chức Hàn Lâm viện đãi chế, tham gia vào các công việc soạn thảo văn bản triều đình.
Năm Nhâm Thân (1752), thăng chức Đông các Đại học sĩ, sau đó lần lượt nhận các chức Đốc đồng Trấn thủ sự vụ xứ Thanh Hoa, Thự đốc thị Nghệ An, Đốc đồng Tuyên Quang kiêm thừa Chánh sứ, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa.
Trong thời gian được giao trấn trị miền biên viễn phía Bắc (khoảng năm 1760), tài năng của Phan Kính đã khiến vua Càn Long nhà Thanh vô cùng mến phục. Giai thoại kể rằng, trong một lần đi sứ sang Trung Hoa, Phan Kính đã thể hiện sự ung dung, đỉnh đạc, bản lĩnh, đối đáp thông minh, sắc sảo và khéo léo trước triều đình nhà Thanh. Ông đã khiến vua Càn Long phải thốt lên lời khen ngợi đặc biệt, phong cho ông là "Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa", và ban tặng một chiếc áo cẩm bào cùng hai bức trướng ghi dòng chữ "Thiên triều đặc tứ Bắc đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ" (Thiên triều đặc biệt ban cho người đứng đầu phương Nam).
Trong vai trò một vị quan lớn, Phan Kính luôn lấy dân làm gốc, cống hiến hết mình cho đất nước. Ông là người liêm khiết, công tâm, không màng danh lợi, luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là các vùng quê nghèo khó. Ông từng dâng nhiều bản sớ can gián vua và chúa, đề xuất các chính sách cải cách, chăm lo dân sinh, khuyến khích phát triển nông nghiệp, giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Không chỉ là một chính trị gia mẫn cán, ông còn là một nhà quân sự tài ba. Trong thời kỳ loạn lạc, khi đất nước có nhiều biến động, Phan Kính đã được triều đình cử đi dẹp giặc, giữ yên bờ cõi. Trong các chiến dịch quân sự, ông luôn thể hiện tầm nhìn chiến lược, tài tổ chức và đức độ của một vị tướng, nhờ đó lập được nhiều công lớn trong việc giữ gìn sự ổn định của quốc gia.
II. NHÂN CÁCH CAO ĐẸP VÀ TINH THẦN HIẾU HỌC
Một trong những điều làm nên giá trị bền vững của Thám hoa Phan Kính chính là nhân cách và đạo đức của ông. Trong suốt cuộc đời làm quan và phụng sự nhân dân, ông luôn giữ vững khí tiết, sống giản dị, thanh bạch, thương dân như con, sống đúng với đạo lý "trung – hiếu – liêm – chính" mà Nho giáo đề cao. Ông không bao giờ lợi dụng chức quyền để mưu cầu cá nhân hay dung túng cho những kẻ gian tà.
Ông cũng rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Khi về trí sĩ ở quê nhà, ông đã mở lớp dạy học, đào tạo nhiều học trò thành tài. Nhiều người trong số đó sau này cũng trở thành những nhân tài phục vụ đất nước. Tinh thần hiếu học, trọng người tài và đạo lý làm người của ông đã để lại ảnh hưởng sâu sắc cho các thế hệ con cháu sau này.
IV. DI SẢN VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
Thám hoa Phan Kính mất năm 1761, hưởng thọ 47 tuổi. Tuy cuộc đời của ông không dài, nhưng sự nghiệp và tấm gương sống của ông mãi mãi là niềm tự hào của quê hương Hà Tĩnh và dân tộc Việt Nam.
Ghi nhận những công lao, đóng góp của Thám hoa Phan Kính, ngày 23/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao ban hành Quyết định số 776-QĐ/BT xếp hạng di tích Đền thờ Phan Kính là di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia. Tên Phan Kính đã được đặt cho một số đường phố tại Thành phố Hà Nội, thành phố Vinh (cũ), thành phố Hà Tĩnh (cũ), thị xã Hồng Lĩnh (cũ), tên trường tiểu học của xã Trường Lưu.